Trò cá ngựa của cuộc đời kĩ sư

Publish: : Tiếng Việt / Vietnamese

Việc trang bị kiện thức đối với một kĩ sư máy tính là quan trọng, nhưng ở Việt Nam, kĩ sư suy nghĩ về kĩ năng của mình củng như giành lấy những thành công trong sự nghiệp như thế nào? Tôi thử khảo sát về những gì diễn ra trong hoạt đông tìm việc của sinh viện mới ra trường, mới bắt đầu sự nghiệp.

Kĩ sư và kĩ năng

Kĩ sư máy tính và kĩ năng có mối quan hệ không thể tách rời.Chúng tôi bán kĩ năng và biến nó thành tiền. Niềm tự hào của người thợ chúng tôi là không tự mình ăn mà ăn bằng cơ bắp.

Mặc dù nói như vậy, nhưng trong xã hội này nếu có mặt phài thì cũng có mặt trái. Thực tế thì đi ăn một mình thì nhàn nhã hơn. Ví dụ như mình phái một người có lập trường yếu đuối, rồi sau đó không dùng họ nữa thì thà mình tự làm cho rồi.

Không ai sẽ trả lời khiêu khích là “Chuyện này có gì không ổn! Ăn một mình có thề ăn ngon được sao ?”, nhưng trước tiến tôi muốn tiến đến truyện” kĩ năng là quan trọng.”

Không hẳn là ai cũng có kĩ năng từ đầu. Nếu không học hành, không luyện tập, không ngừng cập nhập cái mới thì mình sẽ trở nên lạc hậu. Có những trường họp bỏ qua kĩ năng. Thiên tài sớm nở cực kì hiềm xuất hiện, có thể lý giải những nguyên lý cơ bản thì chắc chắn không đem lại ứng dụng gì. Tuy nhiên theo tôi đó chỉ là một ngoại lệ.

Việc cần thiết đối với người kĩ sư là học tập những kĩ năng một cách chắc chắn. Vì việc này cũng phổ biến, nên dủ ở Việt Nam thì cũng giống như vậy. Kĩ năng của kĩ sư máy tính ở Việt Nam là kỹ năng nào, hãy thử đuổi theo thời gian theo phong cách trò xí ngầu. Từ đại hoc cho đến đi làm.

Từ sinh viên đến nhân viên

Tỉ lệ học sinh đi học đại học ở Nhật Bản là 50,8% và tỉ lệ sinh viên có dự định làm việc rõ ràng khi ra trường là 82,9%. Tại Việt Nam, tỉ lệ học đại học là 10% (năm 2009) và tỉ lệ sinh viên ra trường có việc làm là 80%. Tuy tôi nghĩ rằng những người học đại học là tinh hoa của thế hệ đó vì thực tế, số lượng sinh viên đại học là không nhiều nhưng khi đã trở thành sinh viên và câu chuyện việc làm sau khi tốt nghiệp trong so sánh với Nhật Bản có thể nói tương đối giống nhau.

Vậy số lượng 20% sinh viên thất nghiệp thì sao?

Trong trường hợp của Nhật Bản, những người vô công rỗi nghề có thể lựa chọn trở thành NEAT (những người không có công việc, hoạt động chính là game, lướt web, SMS) hoặc kế thường công việc của gia đình. Khi hỏi thăm những sinh viên đại học Việt Nam thì tôi nhận được câu trả lời là bình thường thì một nửa số sinh viên sẽ đi học tiếp, một ngành khác hoặc học bậc học cao hơn, một nửa còn lại sẽ vừa làm thêm vừa tìm việc.Sau cùng thì họ cũng trở thành những người vô công rỗi nghề.

Sau đây là những giải thích về vấn đề việc làm.

Hoạt động tìm việc làm ở Việt Nam, xét về mặt hình thức, không giống với Nhật Bản. Về căn bản, sinh viên học ở trường đại học, sau khi tốt nghiệp mới tìm việc làm. Bên cạnh đó cũng có những ngoại lệ, cũng có những việc đi làm khi còn đang đi học như ở Nhật Bản, hoặc cũng có những trường hơp chỉ ghi danh học, nhưng ít khi đến trường (1 tuần đến 1 lần chẳng hạn)  và làm việc toàn thời gian.

Để cho dễ hiểu hơn, hiện tại, tôi sử dụng những cụm như 80% sinh viên tốt nghiệp hoặc những người vô công rỗi nghề, nhưng thực sự không giống với Nhật Bản và tôi có hứng thú với sự khác nhau giữa học sinh sinh viên và người dã đi làm hoặc sự khác nhau giữa sinh viên mới đi làm và người chuyển công tác. Những từ ngữ từ đầu như “hoạt động việc làm” thì không có khái niệm, không phải là một nghi thức phải làm của những sinh viên đi tìm việc, tôi nghĩ rằng, việc chuyển công tác nên được làm khi còn là học sinh.

Sinh viên Việt Nam tìm việc như thế nào?

Sinh viên Việt Nam làm sao tìm thấy được công ty mình cần làm? Tuy không có thống kê cụ thể, nhưng khi tìm hiểu về cách suy nghĩ, tôi đã thử hỏi đối với việc tìm việc làm thì có hình ảnh như thế nào.?

Giới thiệu từ các trường đại học:

  • Trường đại học không thu xếp công việc cho sinh viên
  • Ở trường đại học Việt Nam không có phòng giới thiệu việc làm
  • Thứ có ích nhất cho công việc của sinh viên là văn bằng cấp sau khi tốt nghiệp

Giới thiệu từ giảng viên:

  • Có khoảng 10% sinh viên chuyên ngành kĩ thuật nhận việc từ phương pháp này.
  • Sinh viên chuyên ngành kĩ thuật chiếm khoảng 40% tổng số sinh viên, do đó, chỉ có khoảng 4% sinh viên được giới thiệu việc làm từ giảng viên.
  • Đây là phương pháp tìm việc được cho là tốt nhất trong các phương pháp

Mối quan hệ:

  • Có khoảng 25% sinh viên tìm việc nhờ vào mối quan hệ
  • Có lẽ, nhờ vào các mối quan hệ bạn bè thân quen là nhiều
  • Sử dụng mối quan hệ dựa trên ảnh hưởng xã hội của bố mẹ như ở Nhật Bản, ở Việt Nam có khoảng 10%
  • Phương pháp này không được xem là bất chính hoặc xấu xa. Ngược lại, nhiều doanh nghiệp lại nghĩ đây là phương pháp tốt vì có người đứng ra đảm bao cho nhân phẩm và năng lực của người mới.
  • Bên cạnh đó, ngược lại với những ý kiến đã trình bày như trên, cũng có những ý kiến khác như: “ bố mẹ tôi phản đối việc sử dụng các mối quan hệ mà có chủ trương là phải tự sức mình để tìm được công việc.

Tìm việc thông qua thi cử ( thi công chức nhà nước hoặc thi kiểm tra trình độ chuyên môn)

  • Phương pháp thường thấy ở các doanh nghiệp quốc doanh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
  • Do đó, dù có được giới thiệu trước bằng các mối quan hệ cũng phải đảm bảo được các tiêu chí cơ bản như học lịch, khả năng ngoại ngữ hay khả năng chuyên môn.

Internship

  • Thường dành cho sinh viên năm 3 và năm 4
  • Tùy theo trường đại học mà sinh viên bắt buộc phải đi thực tập.
  • Tuy nói là thực tập nhưng cũng có khi thực tế chỉ đến để quan sát .
  • Làm sao để có được việc làm thì không có tiêu chí cụ thể

Những công ty môi giới như Recruit hay Mynavi

  • Ít có sinh viên sử dụng dịch vụ này
  • Cho dù là có đăng kí nhưng cũng không thể xác minh được nguồn gốc thông tin
  • Được cho là phương pháp tìm việc làm ít có hiệu quả nhất
  • Không thể tận dụng được lợi thế chuyên môn của bản thân hoặc làm những việc mong muốn

Hình thái mới của tìm việc bằng mối quan hệ

Ỏ Nhật Bản, “mối quan hệ” mang ấn tượng khá tiêu cực. Ví dụ như trong một tập thể mới vào làm ở một doanh nghiệp lớn, nếu bị nói là “người đó vào được công ty là nhờ vào mối quan hệ”  thì đúng là nói xấu người khác. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc này được nhìn nhận khá tích cực, việc bạn bè giới thiệu hay được chia sẻ thông tìn từ người trong công ty, kết hợp với điểm số kiểm tra trình độ đã được xây dựng thành chính sách và thực hiện công khai, minh bạch.

Thực trạng của hoạt động tìm kiếm việc làm ở Việt Nam sau này sẽ diễn ra như thế nào, tác giả cũng không biết, do đó, không còn cách nào khác là phải suy nghĩ thử xem sao.

Tuy nhiên, nếu quay lại điểm xuất phát là trình độ và tay nghề của các kĩ sư công nghệ thông tin, tôi nghĩ rằng việc công khai sử dụng các mối quan hệ để tìm việc không có gì xấu. Trong trường hợp của những kĩ sư có tay nghề cao chuyển công tác, thì thực tế là chuyển công tác theo hình thức này (đây là câu chuyện của một kĩ sư có trình độ đã chuyển công tác nói về phương pháp tìm việc của các tân cử nhân mới ra trường).

Việc chuyển công việc nhờ vào mối quan hệ có liên quan đến việc hướng đến những kĩ năng được sinh ra do nhu cầu của thị trường nhân lực hay không? Và điều đó có trở thành việc nắm lấy cơ hội để tích lũy kĩ năng trong giới hạn của chủ nghĩa gia đình trị và chủ nghĩa cơ hội hay không? Phía bên nào thì không thể hạn định được? Hướng nào cũng có khả năng. Khi được chia ra, cho dù có mối quan hệ thì cũng cần phải có kết quả của các cuộc kiểm tra.

Khi nói về nguyên nhân tại sao lại nói như vậy, thì đó là nhờ nhận được những phát triển của khoa học kĩ thuật.

Hoạt động tim việc theo kiểu “matching” (kết nối cung – cầu) như ở Nhật Bản nhận được hỗ trợ nhiều từ cơ sở dữ liệu.Những người muốn tìm việc ở Nhật Bản, không có gì gọi là truyền thống từ thời xa xưa nhưng tôi vẫn không quên được từ năm 1980 đến những năm 90, việc này đã được phổ cập đến mọi người. Vào lúc đó đã bắt đầu việc thu nhỏ kích thước của máy vi tính và nâng cấp hệ thống cơ sở dữ liệu, khoảng 100 nghìn học sinh, hàng vạn doanh nghiệp đã được kết nối một cách tiết kiệm, công nghệ và nhanh chóng.

Hiện tại, lĩnh vực được phát triển nhanh chóng nhất không phải là cơ sở dữ liệu mà là internet. Hơn nữa, còn phổ biến cho người dùng thông thường và có thể lập một hội nghị video miễn phí. Hàng trăm ngàn học sinh và hàng ngàn doanh nghiệp  đã được kết nối với nhau nhưng tuyệt nhiên không sử dụng SQL, tôi nghĩ việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng là phương pháp hiện tại, không chỉ là có khả năng cao mà còn có thể được phát triển trong thời gian tới.

Tuy nhiên, phương pháp sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng có thể kết nối tốt nhưng không hướng tới những phân khúc nhất định. Do đó, cần phải có một cơ cấu khác, như một thước đo, đó là điểm số của một kiểm định mang tính khách quan.

Những điều được viết như trên, tôi muốn xác minh nó trong tương lai như một giả thuyết trong hiện tại.

Trò chơi cá ngựa vẫn sẽ tiếp tục.

 Xem bài viết tiếng Nhật tại đây.

Related articles

no image

ASANA – CÔNG CỤ QUẢN LÝ DỰ ÁN TỐI ƯU

Asana-Công cụ quản lý dự án tối ưu Trong những nă

Read this article

shutterstock_1069617671

phát triển hội viên ứng dụng thẻ có nhiều lợi ích! Trường hợp giới thiệu?

Để cung cấp cho các điểm đến các thành viên, đ

Read this article

no image

LẨU VÀ SỰ HÒA QUYỆN TRONG VĂN HÓA ẨM THỰC VIỆT

Cơn gió đầu mùa khéo léo vén tấm rèm khung cửa sổ

Read this article

quickorder-301139-unsplash (1)

Nếu nhà thầu phụ cho sự phát triển của ứng dụng là cách tìm kiếm? Làm thế nào để tìm nhà thầu phụ

Nếu bạn muốn sự phát triển của các ứng dụng, n

Read this article

image01

Phần mềm nghe lén điện thoại

Hiện trạng Chỉ cần lên google và gõ: “phần mềm ng

Read this article

shutterstock_546883993-300x199

Đối với chi phí phát triển sẽ được giới thiệu lợi ích và chăm sóc của các ứng dụng lưu trữ

  Cả hai lớn và nhỏ, trong những năm g

Read this article

shutterstock_434641918

phương pháp so sánh và tỷ lệ chi phí phát triển ứng dụng

Hoặc phát triển ứng dụng là có thể từ trứng cá

Read this article

heidi-sandstrom-173946

Giới thiệu các trường hợp đặt hàng ứng dụng quảng cáo và thư

Sự lây lan của điện thoại thông minh, bây giờ

Read this article

https://www.odesk.com/

Người Việt Nam và Crowdsourcing

Đây là bài điều tra của tôi về crowdsourcing ở Việ

Read this article

shutterstock_161791211

ứng dụng sản xuất thành công? Thất bại? Trường hợp này là tốt hơn để xem xét thay đổi làm

Điện thoại thông minh là phổ biến hiện nay, ng

Read this article

PAGE TOP ↑