punched card

An early storage medium made of thin cardboard stock that holds data as patterns of punched holes. Each of the 80 or 96 columns holds are punched by a keypunch machine or card punch peripheral and are fed into the computer by a card reader.
Although still used as turnaround documents, punched cards are practically obsolete. However, from 1890 until the 1970s, they were synonymous with data processing. Concepts were simple: the database was the file cabinet; a record was a card.
Processing was performed on separate machines called sorters, collators, reproducers, calculators and accounting machines.

Card đục lỗ
Một môi trường lưu trữ trước đây được tạo bởi một khối pano thẻ mỏng có chức năng chiếm giữ dữ liệu như là các mẫu lỗ đục. Mỗi cột 80 hoặc 96 chiếm giữ một ký tự. Các lỗ được chuyển vào một máy tính bởi một máy xuyên phiếu hoặc một thiết bị ngoại vi đục lỗ thẻ. Và được chuyển vào một máy tính bởi một bộ đọc thẻ.
Mặc dầu vẫn còn được sử dụng như là các tư liệu phản hồi, các thẻ đục lỗ về mặt thực tế đã không được sử dụng. Tuy nhiên, từ năm 1890 đến thập niên 1970, chúng được xem tương tự với quá trình xử lý dữ liệu. Các khái niệm vốn đơn giản: cơ sở dữ liệu là một tủ tập tin: một mẫu tin là một card.
Quá trình xử lý được thực thực hiện trên các máy riêng lẻ được gọi là các máy sắp xếp, các bộ sắp xếp, các máy tái sản xuất, các máy tính và các máy kết toán.


Published:

PAGE TOP ↑